Khi Ðức Phật du hóa tại xứ Kuru đến thị trấn Thu La, dân chúng đồn
đãi kéo đến bái yết Ngài để nghe thuyết pháp. Bấy giờ trong đại chúng có thanh
niên tên Lại Tra Hòa La, con trai của một gia đình thượng tộc giàu có nhất
vùng, sau khi nghe pháp, suy nghĩ:
- “Như ta hiểu lời Thế Tôn dạy, thì ở nhà thật khó thực hành
đời sống phạm hạnh một cách viên mãn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc. Vậy ta
hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia
đình”.
Nghĩ vậy xong, sau thời thuyết pháp của Phật. Sau khi hội chúng đã
lễ Phật mà lui về, thanh niên ấy đến bên Ðức Thế Tôn, xin Ngài xuất gia tu học.
- Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn dạy, thì tại
gia thật không dễ gì sống đời phạm hạnh một cách viên mãn, hoàn toàn trắng bạch
như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy cho con xuất gia dưới sự hướng dẫn của
Thế Tôn.
- Nhưng này thanh niên, con có được cha mẹ bằng lòng cho
xuất gia chưa?
- Bạch Thế Tôn. con chưa được cha mẹ bằng lòng.
- Này thanh niên, Như Lai không cho xuất gia nếu cha mẹ
không bằng lòng.
- Bạch Thế Tôn, vậy con phải làm những gì cần thiết để cha
mẹ bằng lòng cho con xuất gia.
Lại Tra Hòa La đảnh lễ Phật ra về, xin cha mẹ:
- Thưa ba má, con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất
gia từ bỏ gia đình. Xin ba má hãy bằng lòng cho con được xuất gia.
Khi nghe nói vậy ông bà phú hộ bảo:
- Này con, đừng ăn nói dại dột. Con là đứa con duy nhất của
ba má được nâng niu như vàng ngọc từ tấm bé, lẽ nào ba má để cho con được xuất
gia? Huống chi nhà ta vàng nén, hột xoàn kim cương chất đống, bao nhiêu của
chìm của nổi, tài sản mấy đời tổ tiên để lại, tất cả đều dành cho con. Con hãy
ăn chơi thỏa thích, rồi muốn tu thì bố thí, làm phước là được rồi. Con chưa
biết gì đến sự gian khổ, làm sao ba má để con sống đời khổ hạnh được? Ba má
không bao giờ cho con xuất gia.
Sau ba lần năn nỉ không được chấp nhận, Lại Tra bèn nằm lăn ra
giữa nhà, tuyệt thực với ý định: “Ta sẽ chết ở đây, nếu không được xuất gia”.
Hai ông bà đưa cơm cháo gì đến, Lại Tra vẫn nằm bất động. Một
ngày, hai ngày, ba ngày, rồi bảy ngày trôi qua, chàng nhất định không ăn uống,
không cục cựa, mặc cho cha mẹ khuyên lơn. Thân thể chàng đã yếu lả, mắt lờ đờ
như người hôn mê sắp chết. Ông bà phú hộ đâm hoảng, đến cầu cứu những người bạn
trẻ của con:
- Này các cháu, Lại Tra Hòa La đòi đi tu, hai bác không cho,
nên nó tuyệt thực nằm vạ cả tuần lễ nay chẳng chịu nhúc nhích nói năng gì cả.
Các cháu hãy đến năn nỉ nó ăn uống lại giùm. Hãy khuyên nó bỏ ý định xuất gia.
Các thanh niên làm theo lời, đến bên Lại Tra để khuyên nhủ. Nhưng
sau năm bảy lần thuyết phục, chàng vẫn bất động. Thấy thế nguy, họ đề nghị với
ông bà phú hộ:
- Thưa hai bác, chúng cháu thấy rõ Lại Tra đã nhất quyết
theo ý định mình, không thì chết. Vậy hai bác nên bằng lòng cho anh ta xuất
gia, họa may thỉnh thoảng hai bác còn gặp lại được. Nếu không hai bác đành vĩnh
viễn mất người con.
Hai ông bà đành phải chấp thuận, đến nói với Lại Tra:
- Thôi, con đã nhất quyết thì ba má cũng chiều lòng. Nhưng
đi tu xong phải thỉnh thoảng về nhà thăm ba má và mấy người vợ mới cưới của
con, kẻo chúng nhớ tội nghiệp.
Lại Tra mở bừng mắt ngồi nhỏm dậy, trở lại ăn uống. Sau khi lấy
lại sức, chàng từ giã cha mẹ ra đi, đến chỗ Phật trú.
- Bạch Thế Tôn, con đã được cha mẹ cho phép xuất gia. xin
Thế Tôn hãy cho con xuất gia tu phạm hạnh.
Ðức Phật nhận lời cho thanh niên cạo tóc đắp áo cà sa, thọ đại
giới, theo Ngài về ở Tịnh xá Kỳ Viên nước Xá Vệ. Tôn giả Lại Tra tinh tiến tu
hành, ưa thích đời sống độc cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chẳng bao
lâu đã đạt đến cứu cánh cao tột của đời phạm hạnh, vì cứu cánh này mà những
thiện gia nam tử đã từ bỏ gia đình, ấy là quả vị A La Hán. Vị ấy biết sanh tử
đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm xong, không còn phải trở
lại cuộc đời này nữa.
Một hôm, Tôn giả đến đảnh lễ Phật:
- Bạch Thế Tôn, nếu Ngài cho phép, con sẽ xin trở về ngôi
làng cũ.
Ðức Phật quán xét biết Tôn giả bây giờ đã có thể trở về, không có
gì nguy hiểm cho phạm hạnh, nên Ngài dạy:
- Lại Tra, ngươi có thể làm những gì ngươi nghĩ là phải
thời.
Sau khi đảnh lễ đấng Ðạo Sư, Tôn giả Lại Tra thu xếp lên đường.
Ðến thị trấn Thu La, Tôn giả tuần tự khất thực. Khi đến nhà cha mẹ, Tôn giả ôm
bát đứng ngoài cổng. Thoáng thấy bóng chiếc áo cà sa, ông phú hộ chưa kịp nhìn
kỹ, đã nổi trận lôi đình, nghĩ: “Kìa là một Sa môn trọc đầu tới xin ăn. Vì
những người đó mà đứa con yêu dấu độc nhất của ta đã bỏ nhà ra đi biền biệt.
Nay còn tới đây báo hại cái gì?” Rồi không thèm nhìn ra, ông quát tháo:
- Này Sa môn trọc đầu kia hãy đi đi! Ta không muốn nhìn cái
mặt mo ấy. Ði cho mau, đi
cho khuất con mắt của ta!
Tôn giả lặng lẽ ôm bát tiếp tục đi. Chợt từ
ngõ sau nhà, người nữ tỳ bưng nồi cháo đi đổ. Tôn giả nói:
- Này chị, chị bưng cái gì thế?
- Tôi đem nồi cháo ăn còn thừa từ bữa
qua đi đổ vào thùng rác ngoài lộ.
- Xin chị hãy đổ vào bát của bần tăng
cũng được, khỏi phải đi xa cho nhọc lòng.
- Càng tốt.
Khi người nữ tỳ đến gần để trút cháo vào bát
Tôn giả, cô ta nhận ra đôi chân quen thuộc. Ðánh bạo nhìn lên tay, mặt, thì rõ
ràng là vị tiểu chủ ngày xưa, không còn lầm gì nữa. Nữ tỳ chạy vào nhà:
- Thưa ông bà chủ, tiểu chủ đã về tới
ngoài kia!
Bà phú hộ mừng rỡ:
- Ðâu, đâu? Nếu thật như mày nói, thì
mày sẽ được phần thưởng xứng đáng, con ạ.
Ông phú hộ cũng chạy ra:
- Con ta đâu nào?
- Thưa, tiểu chủ đang ngồi ăn cháo thừa
đằng kia.
Lúc ấy Tôn giả đang tựa lưng vào một bức
tường mà dùng cháo vừa xin được. Bà phú hộ nhìn kỹ là con mình, liền chạy lại
khóc:
- Con ơi là con! Sao con về nhà mà con
không vào nhà của con lại ngồi dọc đường dọc sá thế này? Lại đi ăn cháo vữa
cháo thiu! Hãy vào nhà, đi con.
- Thưa gia chủ, bần tăng không có nhà.
Bần tăng có đến nhà của gia chủ, nhưng không nhận được bố thí, chỉ nhận được
lời sỉ nhục và xua đuổi.
Ông phú hộ cũng đã nhận ra, bèn tới năn nỉ:
- Này con, con hãy vào nhà. Ba má sẽ
dọn đồ ăn ngon lành cho con. Ðừng ăn cháo thiu mà đau bụng.
- Thưa gia chủ, hôm nay việc ăn uống đã
xong.
- Vậy thì trưa mai, con hãy nhận lời ba
má.
Tôn giả im lặng chấp thuận. Ông bà phú hộ trở vào nhà, bàn mưu
tính kế. Ông nói:
- Con ta đã về tới đây, phải làm sao để giữ chân nó lại,
đừng cho nó ra đi. Ngày mai, bà với tôi phải hiệp sức mà thuyết phục nó. Trước
hết, bà hãy dọn cho nó một bữa ăn ngon lành, có gà nướng, có rượu hảo hạng,
đừng thiếu món gì. Rồi còn nữa? À, hãy đem tất cả vàng bạc, kim cương ngọc ngà
châu báu trong kho ra, chất một đống giữa nhà cho thật cao, ngập mặt ngập mày,
mà chỉ cho nó nhìn, cho nó biết tài sản của mình là nhiều như vậy. Kế đó là
phần việc của mấy đứa con dâu. Chúng nó đâu rồi, bà hãy gọi chúng nó ra đây, để
chúng ta cắt công cắt việc.
Khi các con dâu đến, ông phú hộ bảo:
- Này các con dâu! Ngày mai chồng của các con trở về ăn cơm
tại nhà đấy. Các con phải tận lực hợp sức cùng ba má để kéo nó ở lại, đừng cho
nó đi. Các con phải trang điểm cho thật lộng lẫy huy hoàng. Hãy đeo vào đầu,
vào cổ, vào tay, vào chân những đồ trang sức mà ngày xưa chồng các con nó ưa
nhìn thấy các con đeo. Hãy sức nước hoa, tưới dầu thơm cho thật nhiều vào, trét
phấn, thoa son, bôi mi mắt, kẻ lông mày, uốn tóc cho dợn sóng lên, chống lỗ
mũi, lỗ tai lên.
Những cô dâu khúc khích che miệng cười:
- Thưa ba, không có chống lỗ tai đâu ạ!
- Vậy thì, các con hãy làm cái gì các con nghĩ là hợp thời
để quyến rũ chồng của các con cho bằng được.
Rồi ông bà phú hộ cắt đặt cho gia nhân trưng dọn, trang hoàng nhà
cửa, ngọc ngà châu báu được đem ra chất giữa nhà một đống, lấy màn che lại. Các
cô vợ trẻ trang sức lộng lẫy như đào hát đứng thành một tốp, cũng lấy màn che
lại. Phú ông ngắm nghía nhà cửa, vàng ngọc, và người, tỏ vẻ đắc chí, hài lòng:
- Thế là được. Ngày mai cứ như vậy mà thi hành.
Hôm sau, đến giờ thọ trai, Tôn giả ôm bát từ từ tiến vào cổng. Ông
bà đon đả ra mời. Khi Tôn giả vào nhà, ông chỉ:
- Này con, hãy nhìn đây, (ông kéo màn) vàng bạc châu báu cả
đống đấy, tất cả đều là của con. Con hãy ở lại mà thọ hưởng, muốn chi cũng
được.
- Thưa gia chủ, nếu gia chủ dành cái đống đó cho tôi, thì
xin gia chủ cho xin thêm ít cái bao bố may sẵn, dộng nó vào, và mướn một, hay
hai, ba chiếc xe chở ra ngoài sông lớn mà đổ ngay giữa dòng, cho nó chìm sâu
xuống đáy nước. Vì sao? Vì nó là nguồn gốc của tất cả khổ não đến với gia đình.
Ông phú hộ lại kéo mấy cái màn che mấy bà vợ cũ ra. Các nàng chạy
đến ôm chầm lấy Tôn giả, khóc ròng kể lể:
- Ối chàng ôi! Bộ chàng muốn mấy cô tiên nào trên trời nên
đi tu để được lên trên ấy phải không? Chàng đã bỏ bê chúng thiếp để mơ tưởng
lên trên trời với mấy cô tiên. Hù hu, hù hu. Nói đi, có phải vì mấy cô tiên nữ
mà chàng xuất gia tu phạm hạnh hay không? Hù hu.
- Các chị, các chị, không phải vì mục đích được sanh lên cõi
trời mà bần tăng xuất gia tu phạm hạnh.
Khi ấy các bà vợ cũ đấm ngực, khóc than thảm thiết:
- Ối, cha mẹ làng nước ơi, chồng chúng ta bây giờ lại gọi
chúng ta bằng chị! Ối trời đất quỷ thần ơi!
Rồi họ ngã lăn ra giữa nhà, bất tỉnh nhân sự, Tôn giả nói với ông
bà phú hộ:
- Thưa gia chủ, gia chủ muốn thí đồ ăn thì bố thí đi, chớ có
phiền nhiễu bần tăng.
- Hãy ăn đi, con yêu dấu. Ðồ ăn đã dọn sẵn.
Thọ thực xong, Tôn giả đứng lên nói bài kệ:
Mày ngài mắt phượng mà chi?
Tốt tươi rồi cũng một bì xương
khô.
Tâm: rừng tham ái sầu lo
Thân: nhà chứa bệnh, nấm mồ chờ
ai
Nào đâu mắt phượng mày ngài?
Khi thây quăng bỏ ra ngoài đồng
hoang
Mưa sa gió cuốn phũ phàng,
Ðống xương vô chủ võ vàng trăng soi
Ðãy da chứa đủ tanh hôi
Lại toan sơn phết ra mòi bảnh bao!
Kẻ ngu mê lại lăn vào
Như nai sa bẫy, người nào khác chi!
Ai đà giải thoát sầu bi
Tránh xa lưới ái, tình si đâu còn!
Bẫy nào bắt được nai khôn
Lúa ăn vừa đủ, tẩu bôn vô rừng
Thợ săn ngơ ngác hết mừng
Thì đành đấm ngực vẫy vùng khóc la.
Ðọc xong bài kệ, Tôn giả cáo từ đi đến vườn
Lộc Uyển ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Khi ấy, vua xứ Kuru bảo người hầu cận
sửa soạn cho vua dạo rừng. Người hầu thấy Tôn giả liền trở vế tâu:
- Tâu Ðại vương, ngoài rừng Lộc Uyển, có
vị Sa môn đang ngồi, chính là con trai của gia đình thượng tộc ở thị trấn này,
tên là Lại Tra Hòa La.
- Vậy, thay vì đi dạo rừng, ta hãy đến
thăm vị Tôn giả ấy.
Vua cùng người hầu đi đến rừng Lộc Uyển, chỗ
Tôn giả đang ngồi. Vua cung kính đưa tấm nệm gấm ra mời:
- Xin Tôn giả hãy ngồi trên tấm này cho
êm.
- Ðại vương, tôi đã có tọa cụ. Ðại
vương hãy ngồi trên chỗ của Ðại vương.
- Bạch Tôn giả, người đời thường xuất
gia vì bốn sự suy vong: một là lão suy, hai là bệnh suy, ba là tài suy, bốn là
thân suy. Như những người lúc trẻ thụ hưởng dục lạc đã đầy đủ chán chê, đến khi
già không còn ham muốn gì nữa, và cũng đã hết sức lực mới vô chùa nghỉ. Ðó là
lão suy. Lại như người mắc bệnh kinh niên không thể lao động sản xuất được, ở
ngoài đời không lợi chi cho ai, lại thêm gánh nặng cho gia quyến, nên xin vô ở
chùa. Ðó là bệnh suy. Rồi có những người làm ăn thất bại, hoặc bị mất mát về
tiền bạc, hoặc đánh bài bạc bị phá sản, đổ nợ đổ nần, không thể gầy dựng lại
được, bèn chán nản vô chùa xin gởi tấm thân tàn, sống nốt quãng đời còn lại. Ðó
là tài suy. Cũng có những người xuất gia vì lẽ không còn ai thân thích để nương
tựa. Ðó là thân suy. Thông thường vì bốn sự suy vong này mà xuất gia. Nhưng xét
Tôn giả, tuổi còn thanh xuân, tóc đen nhánh, thì không phải lão suy. Da dẻ hồng
hào tươi nhuận chứng tỏ sức khỏe không đến nỗi nào, thì đâu phải bệnh suy. Tôn
giả xuất thân từ một gia đình thượng tộc giàu nhất vùng thì đâu phải tài suy.
Song thân còn đủ, các bà vợ đang mong chờ, thì cũng không thể gọi là thân suy. Vậy
Tôn giả xuất gia vì nguyên nhân nào?
- Ðại vương, tôi xuất gia vì bốn điểm
thuyết giáo của Ðấng Ðạo Sư mà tôi thấy đúng như thật. Thứ nhất là, Ngài dạy
mọi sự ở thế gian là vô thường.
- Nghĩa là sao, xin Tôn giả giải thích.
- Ðại vương, như thân thể của Ðại vương
đó, lúc nào cũng như lúc nào hay mỗi lúc một khác?
- Như vậy là trẫm đã hiểu. Quả thật,
thân thể là vô thường, đổi khác luôn luôn, nhất là ở tuổi già như trẫm. Năm nay
đã khác năm ngoái, nói gì đến tuổi trẻ với lúc già, thật khác nhau trời vực.
Còn điểm thứ hai là gì, thưa Tôn giả?
- Thứ hai là vô hộ, vô chủ: không ai
giúp đỡ mình được, không có chủ tể.
- Sao lại không? Như trẫm đây, biết bao
nhiêu người phò tá, trẫm là chủ cả nước, muốn chi được nấy, làm sao Tôn giả lại
nói vậy?
- Ðại vương, Ðại vương có thể đem cả
tài sản, ngai vàng để thuê mướn kẻ khác đau thay, già thay, chết thay cho Ðại
vương, không?
- Cái đó thì không được.
- Ví như Ðại vương tạo nghiệp ác, phải
đọa địa ngục, thì Ðại vương có thể đem tài sản ấy đút lót cho Diêm vương để
khỏi đọa, hay chính mình phải chịu?
- Ðúng như vậy, mình làm mình chịu,
không ai thay được. Thế là trẫm đã hiểu vô hộ. Còn vô chủ thì sao?
- Ðại vương có thể làm chủ cái thân xác
Ðại vương được chăng? Bảo nó không được bệnh, không được già, không được chết,
nó chịu nghe chăng? Bảo cái tay đừng run, cái chân đừng quỵ, mắt đừng lờ, tai
đừng lãng, được không? Ðại vương có thể bảo cái thân của Ðại vương khi nó đang
đau rằng: “Hãy khỏe mạnh trở lại không? và Ðại vương có biết khi nào thì nó
đau, khi nào nó chết không?
- Ðúng thế, quả thật trẫm không thể làm
chủ được cái thân này, dù trẫm đang làm chủ cả quốc gia. Còn điểm thứ ba là gì
thưa Tôn giả?
- Thứ ba là trên thế gian không có cái
gì của mình.
- Ủa, sao Tôn giả nói vậy? Trẫm có biết
bao nhiêu là kho tàng châu báu, giang sơn gấm vóc này thuộc về trẫm. Nói gì đến
vật, ngay cả đến người, trẫm cũng sở hữu từ quan đại thần lớn nhất trở xuống,
trẫm sai đâu chạy đó, sao lại không sở hữu?
- Ðại vương, khi Ðại vương nằm xuống,
ngài có thể đem theo tất cả kho báu, giang sơn xuống âm phủ để tiếp tục sử
dụng, hay phải giao lại cho kẻ khác, còn mình chết tay không? Ðại vương có thể
bắt tất cả đình thần, quyến thuộc dân chúng cùng chết theo qua bên kia thế giới
để Ðại vương tiếp tục làm chủ, hay Ðại vương phải ra đi một mình, để người khác
thay Ðại vương trị vì thiên hạ?
- Thưa hiền giả, đúng thế. Trẫm không
thể đem theo cái gì khi chết và phải chết một mình trơ trọi, để lại giang sơn
này cho người khác. Thảm thương thay! Còn điểm thứ tư là gì, xin Tôn giả hãy
giảng?
- Thứ tư là thế gian này thật thiếu
thốn, thèm khát, nô lệ cho dục vọng, tham lam không bao giờ vơi.
- Nói vậy trẫm nghĩ e chỉ đúng với
những người thường, chứ trẫm đây mà còn thiếu thốn thèm khát cái gì. Vì trẫm
muốn gì chẳng có, đâu còn thèm gì nữa.
- Ðại vương, giả như Ðại vương bây giờ
được tin phi báo của các đội quân tuần tiễu rằng: phía đông có mỏ vàng, phương
nam có mỏ bạc, phương tây có mỏ kim cương, còn ở phương bắc hiện có một xứ giàu
có, đất đai phì nhiêu mà gặp ông vua trụy lạc bê bối, cai trị mất lòng dân, nên
sự nghiệp phòng vệ rất lỏng lẻo, thì Ðại vương nghĩ thế nào?
- Thưa Tôn giả, trẫm sẽ hội họp đình
thần, cắt công tác cho vị này phụ trách khai thác mỏ vàng, mỏ bạc, vị kia đào
mỏ kim cương. Còn cái xứ giàu có phì nhiêu dễ chiếm ấy, thì trẫm sẽ sai võ quan
cử binh tới chiếm để mở mang bờ cõi.
- Ðại vương, đó chính là sự thèm khát,
túi tham không đáy nơi Ðại vương. Người đã có một nước thì thèm chiếm thêm nước
khác, cho đến kẻ vô sản thì thèm bắt con vịt, con gà của hàng xóm về làm của
mình. Ðại vương kết tội kẻ trộm vặt, bỏ tù nó, mà quên rằng mình là kẻ trộm lớn
khi mưu tính như vậy. Do đó mà Phật dạy: thế gian luôn luôn thiếu thốn, thèm
khát, nô lệ cho lòng tham và dục vọng.
- Hay thay, bạch Tôn giả, quả như lời
Tôn giả, bốn điểm thuyết giáo của Ðức Ðạo Sư thật vi diệu. Lành thay Ðức Thế
Tôn! Trẫm xin quy y bậc A La Hán, Chánh đẳng giác và xin cáo từ Tôn giả.
- Ðại vương, xin từ biệt.
THÍCH NỮ TRÍ HẢI
“Tôi đã tạo hạnh phúc cho tôi bằng cách hạn chế sự ham muốn hơn là làm thỏa
mãn nó”.